Thực đơn
Đệ Nhị Cộng hòa (Việt Nam Cộng hòa) Chính phủLoạt bài Lịch sử Việt Nam Cộng hòa | |||||
---|---|---|---|---|---|
|
Chính phủ Đệ Nhị Cộng hòa tiếp thu chính quyền từ Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do các tướng lãnh Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu điều hành trong thời kỳ quân quản giữa nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa.
Chiếu theo Hiến pháp thì lập pháp có Quốc hội lưỡng viện: Thượng viện có 30-60 nghị sĩ nhiệm kỳ 6 năm bầu theo liên danh lấy toàn quốc làm đơn vị độc nhất. Hạ viện có 100 đến 200 dân biểu nhiệm kỳ 4 năm bầu theo cá nhân căn cứ theo từng tỉnh.[1] Chiếu theo Hiến pháp thì Hạ viện phải có 6 ghế dành cho người Việt gốc Miên, 6 người Thượng, 2 người Chàm, và 2 người thuộc dân tộc thiểu số miền núi Bắc Việt di cư vào Nam.[2]
Khóa đầu tiên Thượng viện năm 1967-1973 có 6 liên danh; mỗi liên danh là 10 người, tổng cộng là 60 nghị sĩ. Nguyễn Văn Huyền được bầu làm Chủ tịch Thượng viện.[1]
Khóa đầu tiên Hạ viện năm 1967-1971 có 137 dân biểu; Nguyễn Bá Lương trúng tuyển làm Chủ tịch Hạ viện.[1] Năm 1971 số dân biểu tăng lên thành 159; mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.[3] Trong Quốc hội vào thời điểm năm 1974 thì Thượng viện có 41 nghị sĩ thân chính phủ, 19 nghị sĩ đối lập; Hạ viện có 84 dân biểu thân chính phủ, 59 đối lập và 16 độc lập.[3]
Hành pháp bầu theo liên danh 2 người với nhiệm kỳ 4 năm, một người làm tổng thống và người kia phó tổng thống. Trong cuộc bầu cử năm 1967, liên danh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 34,8% số phiếu.[4] Tuy nhiên nếu tính riêng Thủ đô Sài Gòn thì liên danh Trần Văn Hương - Mai Thọ Truyền nhiều phiếu nhất (151.102). Nhì là Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ (148.933) rồi Trương Đình Dzu - Trần Văn Chiêu (83.374).[5]Tổng thống chỉ định Thủ tướng và Thủ tướng đệ trình danh sách Nội các để điều hành chính phủ. Nội các đầu tiên do Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc nhậm chức ngày 9 tháng 11 năm 1967.
Thành phần chính phủ 1967-1968 | |
---|---|
Chức vụ | Tên |
Thủ tướng | Luật sư Nguyễn Văn Lộc |
Tổng trưởng Ngoại giao | Bác sĩ Trần Văn Đỗ |
Tổng trưởng Quốc phòng | Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ |
Tổng trưởng Nội vụ | Trung tướng Linh Quang Viên |
Tổng trưởng Xây dựng Nông thôn | Trung tướng Nguyễn Đức Thắng |
Tổng trưởng Tài chánh | Lưu Văn Tính |
Tổng trưởng Kinh tế | Trương Thái Tôn |
Tổng trưởng Văn hóa Giáo dục | Giáo sư Tăng Kim Đông |
Tổng trưởng Canh nông và Điền địa | Tôn Thất Trình |
Tổng trưởng Chiêu hồi | Nguyễn Xuân Phong |
Tổng trưởng Giao thông và Vận tải | Lương Thế Siêu |
Tổng trưởng Công chánh | Bửu Đôn |
Tổng trưởng Y tế | Bác sĩ Trần Lữ Y |
Tổng trưởng Xã hội và Tỵ nạn | Bác sĩ Nguyễn Phúc Quế |
Tổng trưởng Cựu Chiến binh | Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng |
Tổng trưởng Lao động | Giáo sư Phó Bá Long |
Tổng trưởng Phát triển Sắc tộc | Paul Nur |
Tồng trưởng Tư pháp | Huỳnh Đức Bửu |
Sau Sự kiện Tết Mậu Thân, Thủ tướng Nguyễn văn Lộc bị chỉ trích và ép từ nhiệm. Người được bổ lên thay là Thủ tướng Trần Văn Hương, nhậm chức ngày 28 tháng 5 năm 1968 nhưng đến 1 tháng 9 năm 1969 thì nội các của ông bị giải tán.[6] Nội các thứ ba là của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm điều khiển chính phủ gần 6 năm (1969-75) cho gần đến khi nền Đệ Nhị Cộng hòa chấm dứt.
Thành phần chính phủ 1969-1975 | |
---|---|
Chức vụ | Tên |
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ | Đại tướng Trần Thiện Khiêm |
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục | Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên |
Tổng trưởng Ngoại giao | Dược sĩ Trần Văn Lắm |
Tổng trưởng Quốc phòng | Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ |
Tổng trưởng Thông tin | Luật sư Ngô Khắc Tỉnh |
Tổng trưởng Xây dựng Nông thôn | Thiếu tướng Trần Thanh Phong |
Tổng trưởng Tài chánh | Nguyễn Bích Huệ |
Tổng trưởng Kinh tế | Phạm Kim Ngọc (từ 1971 là Nguyễn Đức Cường) |
Tổng trưởng Văn hóa Giáo dục | Giáo sư Tăng Kim Đông |
Tổng trưởng Cải cách Canh nông và Ngư nghiệp | Cao Văn Thân |
Tổng trưởng Chiêu hồi | Bác sĩ Hồ Văn Châm |
Tổng trưởng Giao thông | Trần Văn Viễn |
Tổng trưởng Công chánh | Dương Kích Nhưỡng |
Tổng trưởng Y tế | Bác sĩ Trần Minh Tùng |
Tổng trưởng Xã hội | Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu |
Tổng trưởng Cựu Chiến binh | Thiếu tướng Phạm Văn Đổng |
Tổng trưởng Lao động | Đàm Sĩ Hiến |
Tổng trưởng Phát triển Sắc tộc | Paul Nur |
Tồng trưởng Tư pháp | Luật sư Lê Văn Thu |
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử trong cuộc bầu cử ngày 3 tháng 10 năm 1971 trong liên danh với Trần Văn Hương.
Đứng đầu gành tư pháp là Tối cao Pháp viện nhóm họp lần đầu ngày 22 tháng 10 năm 1968 gồm có 9 thẩm phán với nhiệm kỳ 6 năm do Công tố Viện và Luật sư Đoàn đề cử và Quốc hội bổ nhiệm.[7]
Nhiệm kỳ I (1968-1974), Thẩm phán Trần Minh Tiết được bầu làm Chủ tịch. Nối tiếp là Thẩm phán Trần Văn Linh làm Chủ tịch Nhiệm kỳ II (1974-1975).[8]
Ngoài ra còn có Giám sát Viện quy định trong Hiến pháp với 18 giám sát viên coi việc kiểm tra kế toán các cơ quan chính phủ và điều tra những nghi án tham nhũng, lạm quyền, hoặc biển thủ công quỹ.[9]
Việt Nam Cộng hòa được chia thành 44 tỉnh, 237 quận, và 6 thành phố (Đô thành Sài Gòn, Vũng Tàu, Đà Lạt, Cam Ranh, Đà Nẵng, Huế),[9] sau tăng thành 11 thành phố (thêm Rạch Giá, Cần Thơ, Mỹ Tho, Nha Trang, Biên Hòa). Việc điều hành còn bị chi phối bởi quân đội với toàn quốc chia thành 4 quân khu.
Cấp tỉnh thì có Hội đồng Tỉnh và Tỉnh trưởng đứng đầu. Tỉnh trưởng do Tổng thống bổ nhiệm trong khi Hội đồng tỉnh thì do dân chúng bầu lên.[10] Tỉnh trưởng chịu trách nhiệm tài chánh và hành chánh trong tỉnh cùng báo cáo về phủ Thủ tướng và Bộ Nội vụ. Tỉnh trưởng còn có nhiệm vụ chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân và Nhân dân Tự vệ.[11]
Ở cấp quận thì có quận trưởng, thường là một quân nhân do tỉnh trưởng đề cử và Bộ Nội vụ bổ nhiệm. Công việc chính của quận trưởng là trông coi vấn đề an ninh và điều hành những dịch vụ như y tế, nông nghiệp, công chánh và thống kê. Quận trưởng còn có quyền xử kiện trong những vụ án tiểu hình.[11]
Làng xã có Hội đồng Xã quản trị. Thôn làng ít hơn 2.000 người thì bầu hội đồng 6 thành viên trong khi thôn làng hơn 10.000 dân thì có thể lập hội đồng 12 người.[10] Hội đồng xã tự bầu lên xã trưởng. Hội đồng họp mỗi tháng một lần để xét chủ yếu về ngân sách và những đồ án xây dựng. Bắt đầu từ năm 1969 thì xã trưởng quản lý cả những cán sự phát triển nông thôn.[12]
Tính đến năm 1970 thì chính trường Miền Nam có chín chính đảng hoạt động chính thức. Đó là:[13]
Thực đơn
Đệ Nhị Cộng hòa (Việt Nam Cộng hòa) Chính phủLiên quan
Đệ Nhất Cộng hòa (Việt Nam Cộng hòa) Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan Đệ Nhất Đế chế Pháp Đệ Nhất Đế quốc Bulgaria Đệ Tam Cộng hòa Pháp Đệ Tam Quốc tế Đệ Nhị Đế chế Pháp Đế quốc Anh Đế quốc Đông La Mã Đế quốc La MãTài liệu tham khảo
WikiPedia: Đệ Nhị Cộng hòa (Việt Nam Cộng hòa) http://www.vietnam.ca/chinhtri/thangtramVNT/TTQuye... http://google.com/search?q=cache:6oEfWFPq8ikJ:www.... http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp... http://www.tienphong.vn/xa-hoi-phong-su/ky-9-cuoc-...